TÀI LIỆU SINH HOẠT CHI ĐOÀN THÁNG 4/2019
CHUYÊN ĐỀ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH GẮN VỚI VIỆC PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG CỦA THANH THIẾU NHI
(Tài liệu dành cho cán bộ đoàn năm 2019, ban hành kèm theo
Công văn số 2330 -CV/TWĐTN-BTG ngày 05 tháng 3 năm 2019
của Ban Bí thư Trung ương Đoàn)
------------
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao việc phát huy dân chủ trong mọi công việc, không ngừng quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân, trong đó có thanh thiếu nhi. Người là tấm gương sáng ngời về thực hành dân chủ, chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thanh thiếu nhi. Chăm lo cho thanh thiếu nhi cũng là chăm lo cho tương lai của đất nước, bởi vì theo Người, “tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”[1], là lực lượng quan trọng quyết định “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh”, là cái gốc căn bản làm cho “non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không”[2]. Bởi vậy, cán bộ đoàn học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với phát huy dân chủ, chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng của thanh thiếu nhi cần tập trung vào các nội dung chủ yếu sau đây:
Phần thứ nhất
TƯ TƯỞNG VÀ TẤM GƯƠNG HỒ CHÍ MINH VỀ PHÁT HUY
DÂN CHỦ, CHĂM LO VÀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHÍNH ĐÁNG
CỦA THANH THIẾU NH
1. Tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa “dân là chủ”, đối lập với quan niệm “quan chủ”, thể hiện bản chất trong cấu tạo quyền lực của xã hội. Người giải thích: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ”[3], “Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”[4], “địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”[5], “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”[6].
Về tầm quan trọng của dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[7]. “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân..., dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”[8]. Thực hành dân chủ rộng rãi sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn.
Người luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên không bao giờ được quên “dân là chủ”, “mọi quyền hành đều ở nơi dân”, “chính quyền dân chủ có nghĩa là chính quyền do người dân làm chủ”[9], “mọi người có quyền làm, có quyền nói”[10]. Chính quyền từ xã đến Trung ương đều do dân cử ra, tất cả quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Do đó, “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân”[11].
Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là có bảo đảm và phát huy dân chủ ở trong Đảng thì mới bảo đảm được dân chủ của toàn xã hội. Quyền lãnh đạo của Đảng được xuất phát từ sự ủy quyền của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân. Đảng trở thành hạt nhân chính trị của toàn xã hội là nhân tố tiên quyết để bảo đảm tính chất dân chủ của xã hội. Dân chủ trong Đảng trở thành yếu tố quyết định tới trình độ dân chủ của toàn xã hội.
Phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân được Hồ Chí Minh thực hành nhuần nhuyễn xuyên suốt quá trình hoạt động cách mạng. Tấm gương thực hành dân chủ của Người được thể hiện từ những công việc lớn lao cho đến việc bình thường, giản dị trong cuộc sống hằng ngày. Trong công tác lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Người luôn phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, tập thể và nhân dân. Chuẩn bị đưa ra một chủ trương lớn, thậm chí là khi chuẩn bị một bài báo, Hồ Chí Minh đều đưa ra thảo luận, xin ý kiến của tập thể, nhất là ý kiến của những người có chuyên môn sâu và dày dặn kinh nghiệm. Đặc biệt, Người rất coi trọng, biết huy động sự tham gia trí tuệ của đội ngũ trí thức, các chuyên gia trong bộ máy của Đảng và Nhà nước; yêu cầu chuẩn bị kỹ lưỡng, trao đổi góp ý cẩn thận sao cho mọi chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước khi ban hành, ít phải thay đổi, bổ sung. Ngoài ra, trước khi quyết định một công việc hệ trọng, Người thường hỏi lại cẩn thận ý kiến những đồng chí đã giúp mình.
Người không bao giờ đặt mình cao hơn tổ chức, ở ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, mà luôn luôn tranh thủ bàn bạc với tập thể. Người luôn làm gương và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt mình trong tập thể, lắng nghe ý kiến, phát huy sức mạnh tập thể, nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành tốt nhiệm vụ được tập thể giao phó; tuyệt đối tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Hồ Chí Minh cho rằng, sở dĩ xảy ra mất đoàn kết vì người đứng đầu ở nơi đó còn chuyên quyền, độc đoán, áp đặt chủ quan, trong hội nghị thì mọi người miễn cưỡng đồng tình, sau hội nghị nếu đã không thông thì sẽ không quyết tâm thực hiện. Vì vậy, “phải thật sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”, “có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên”[12]. Người cho rằng, Nhà nước ta phải phát huy dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ được thể hiện và thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[13].
Nhiều lần, Hồ Chí Minh phê bình cách lãnh đạo của một số cán bộ không dân chủ, do đó mà người có ý kiến không dám nói, người muốn phê bình không dám phê bình, làm cho cấp trên, cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng với Đảng xa rời nhau, không còn hăng hái, không còn sáng kiến trong khi làm việc.
2. Tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thanh thiếu nhi
2.1. Một số luận điểm của Hồ Chí Minh về chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thanh thiếu nhi
Trong Hồ Chí Minh toàn tập, có 1298 chữ “thanh niên”, 80 chữ “thiếu niên”, 380 chữ “nhi đồng”, thể hiện tư tưởng, sự quan tâm, chăm lo của Người nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thanh thiếu nhi. Trong bản Di chúc, Hồ Chí Minh căn dặn nhiều điều về thanh niên ngay sau khi nói về Đảng, cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Người đối với đoàn viên thanh niên - những người chủ tương lai của đất nước.
Có thể nhấn mạnh một số điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chăm lo, bảo vệ quyền lợi chính đáng cho thanh thiếu nhi sau đây:
Một là, luôn nhìn nhận, đánh giá cao về vai trò, vị trí của thanh thiếu nhi đối với sự nghiệp cách mạng, với tương lai, tiền đồ của dân tộc.
Người luôn khẳng định tiềm năng to lớn của thanh thiếu nhi, tin tưởng và nhìn nhận về thanh thiếu nhi theo quan điểm phát triển, lớp đi sau kế tiếp lớp đi trước gánh vác trọng trách của dân tộc mà lịch sử giao phó. Ngay từ khi đất nước còn chìm trong đêm trường nô lệ, Người đã nêu lên tư tưởng phải thức tỉnh thanh niên để đi đến thức tỉnh dân tộc. Khi nước ta giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm người chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải ra làm việc để chuẩn bị cái tương lai đó”[14].
Khi nhấn mạnh vai trò của thanh thiếu nhi đối với tương lai tươi sáng của đất nước và tiền đồ vẻ vang của dân tộc, Hồ Chí Minh căn dặn: “Thanh niên chiến đấu giữ lấy nền độc lập và tự luyện ngay từ bây giờ để sau này lên thay những thủ lĩnh mà gánh vác việc trọng đại của nước nhà”[15]. Để có được nhìn nhận về sự tiếp nối giữa các thế hệ thanh niên - thiếu niên - nhi đồng, Người cũng chỉ ra mối quan hệ đó rằng: “thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai - tức là các cháu nhi đồng”[16].
Hai là, Đảng, Nhà nước, các cấp ngành, đoàn thể phải quan tâm tổ chức, bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thanh thiếu nhi về mọi mặt, phải chú ý quan tâm từ các cháu nhi đồng.
Quan tâm tổ chức, bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thanh thiếu nhi về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, văn hoá, sức khoẻ, nghề nghiệp, giải quyết việc làm, phát triển tài năng - sức sáng tạo, phát huy vai trò xung kích, tình nguyện để họ kế tiếp nhau cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Muốn có được các thế hệ thanh niên tốt, phải chăm lo từ các cháu thiếu niên, nhi đồng, “vì thiếu nhi là tương lai của dân tộc”[17].
Gia đình, nhà trường và xã hội phải chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, đào tạo thanh thiếu nhi trở thành lực lượng nối tiếp thanh niên, đều là công dân tốt, thành các đội xung kích cách mạng, là lực lượng hậu bị của Đảng nhằm kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng, phục vụ đắc lực cho lý tưởng cộng sản. Bởi nếu không chăm lo cho thế hệ trẻ, không tạo dựng một lực lượng kế tục có đức, có tài, sẽ không có những con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người chỉ rõ: “Gia đình, trường học và xã hội chăm lo giáo dục, đều nhằm mục đích làm cho các em mai sau trở nên những công dân tốt, những cán bộ tốt, những người chủ tốt của nước Việt Nam”[18]; “thế hệ thanh niên hiện nay, gái cũng như trai rất tốt và gan dạ; cần tích cực giáo dục họ và kết nạp những người có đủ tiêu chuẩn vào Đảng để phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân”[19].
Đó cũng là thực hiện tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho nước nhà...”[20]. Bởi vậy, trước lúc đi xa, Người căn dặn trong Di chúc: Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là việc rất quan trọng và rất cần thiết.
Ba là, nhiệm vụ chăm lo cho thanh thiếu nhi là của toàn Đảng, toàn dân, trong đó cán bộ, đảng viên, người đi trước phải là những tấm gương sáng.
Người căn dặn các cấp ủy Đảng, chính quyền phải quan tâm chăm sóc thanh thiếu nhi, đẩy mạnh công tác thanh thiếu: “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà. Vì vậy, chăm sóc và giáo dục tốt các cháu là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đó phải làm kiên trì, bền bỉ…, cần phải đẩy mạnh công tác thiếu niên, nhi đồng đạt nhiều kết quả tốt và thiết thực. Trước hết các gia đình (tức là ông bà, cha mẹ, anh chị) phải làm thật tốt công việc ấy. Các đảng ủy đường phố và hợp tác xã phải phụ trách chỉ đạo thiết thực và thường xuyên. Ủy ban thiếu niên, nhi đồng, Đoàn Thanh niên, ngành giáo dục và các ngành, các đoàn thể cần phải có kế hoạch cụ thể chăm sóc, giáo dục các cháu càng ngày càng khoẻ mạnh và tiến bộ. Các Tỉnh ủy, Thành ủy cần phải phụ trách đôn đốc việc này cho có kết quả tốt. Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt.”[21]
Theo Người, “Giáo dục nhi đồng là một khoa học. Vậy các bạn phải cố gắng học tập, nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, để tiến bộ mãi. Nhất là phải làm kiểu mẫu trong mọi việc”[22]. Bác dạy giáo dục thiếu nhi “phải giữ toàn vẹn cái tính vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, tự động, trẻ trung của chúng, chớ nên làm cho chúng hoá ra những người già sớm”; việc dạy chữ phải luôn đi đôi với việc dạy các em làm người; việc chăm sóc luôn phải đi đôi với việc bảo vệ thiếu nhi, giáo dục trong tổ chức Đội...
Để làm tốt công tác giáo dục đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, Bác đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ và các thế hệ cha, anh, những người đi trước. Theo Bác, thế hệ đi sau phải tiến bộ hơn thế hệ đi trước mới tốt, nếu thế hệ đi sau không bằng thế hệ đi trước, như thế là thụt lùi, là đáng phê bình, đó cũng là khuyết điểm của người lớn tuổi, thế hệ cha anh.
Bốn là, phải tránh thái độ thành kiến, hẹp hòi, bảo thủ với thanh thiếu nhi và phải độ lượng, dìu dắt và đặc biệt quan tâm đến công tác thanh thiếu nhi.
Theo Hồ Chí Minh, thanh thiếu nhi sống trong điều kiện mới, tất yếu có những nhu cầu, lợi ích khác với thế hệ trước. Vì vậy, không nên xem xét, đánh giá thanh thiếu nhi theo quan điểm “trước sao nay vậy”, “Cần phải đi sâu vào đời sống, hiểu rõ tâm lý của các lớp thanh niên và giúp đỡ họ giải quyết các vấn đề một cách thiết thực”[23]. Cần chú trọng việc nêu gương người tốt, việc tốt; đặc biệt là cán bộ đảng viên, các thế hệ đi trước phải là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ học tập noi theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên lâu năm không nên có thái độ gia trưởng đối với thế hệ trẻ, mà ngược lại, càng nên quan tâm giúp đỡ đào tạo họ, để họ làm việc tốt hơn mình. Người từng dạy: “Các đồng chí già là rất quý, là gương bền bỉ đấu tranh, dìu dắt, bồi dưỡng, đào tạo thêm đồng chí trẻ. Đồng chí già phải giúp đỡ cho đồng chí trẻ tiến bộ. Như thế đòi hỏi ở đồng chí già phải có thái độ độ lượng, dìu dắt đồng chí trẻ”[24]. “Nếu thế hệ già khôn hơn thế hệ trẻ thì không tốt. Thế hệ già thua thế hệ trẻ mới là tốt. Các cháu không hơn là bệt. Bệt là không tốt. Người ta thường nói: Con hơn cha là nhà có phúc. Ta hiểu như thế, nhưng không có tư tưởng thụt lùi, nạnh kẹ: Tao làm cách mạng già đời không được gì. Nó mới vào, mà Bộ trưởng, Thứ trưởng, Chủ tịch, Chủ nhiệm...”[25].
Năm là, xây dựng Đoàn và các tổ chức thanh thiếu nhi vững mạnh.
Đoàn là trường học xã hội chủ nghĩa của thanh niên Việt Nam, trực tiếp giúp Đảng, Nhà nước thực hiện nhiệm vụ công tác thanh niên, phát động và tổ chức phong trào hành động cách mạng của thanh niên, là cầu nối giữa thanh niên với Đảng.
Công tác thanh thiếu nhi được đặc biệt coi trọng. Nội dung bao quát trong toàn bộ công tác này của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình thành lớp người kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. “Hồng” theo tư tưởng của Người là “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất”; còn “chuyên” có thể hiểu là trình độ chính trị, văn hóa, khoa học, kỹ thuật và quân sự[26]. Người căn dặn: “Chi bộ phải chăm lo xây dựng Đoàn thanh niên cho thật tốt”, “Trung ương và các cấp đảng bộ địa phương sẽ săn sóc hơn nữa đến công tác của Đoàn, để phát huy tác dụng tiên phong của Đoàn về mọi mặt”[27].
THEO DÒNG LỊCH SỬ - NGÀY NÀY NĂM ẤY
- 10/3 (Âm lịch): Ngày giỗ tổ Hùng Vương.
- 07/4/1907: Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Duẩn.
- 21/4: Ngày sách Việt Nam.
- 23/4: Ngày sách và bản quyền thế giới.
- 25/4/1976: Ngày tổng tuyển cử bầu quốc hội chung của cả nước.
- 27/4/1998: Ngày mất của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
- 30/4/1975: Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- 01/5/1886: Ngày Quốc tế Lao động.
Ngày 30/4/1975: NGÀY GIẢI PHÓNG MIỀN NAM,
THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC
Sau một tháng tiến công và nổi dậy, quân dân ta đã giành toàn thắng trong 2 chiến dịch Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, giải phóng hơn nửa đất đai và nửa dân số toàn miền Nam, chiếm giữ một khối lượng lớn vật chất, trang bị, phương tiện chiến tranh. Các lực lượng vũ trang của ta trưởng thành nhanh chóng.
Nghị quyết của Bộ Chính trị ngày 25/3/1975 đã quyết định chuẩn bị chiến dịch giải phóng Sài Gòn mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh.
Ngày 9/4 quân ta tiến công Xuân Lộc, một căn cứ phòng thủ trọng yếu của địch bảo vệ Sài Gòn từ phía Đông. Tại đây đã diễn ra những trận chiến đấu ác liệt. Ngày 16/4 quân ta phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở Phan Rang. Ngày 21/4 toàn bộ quân địch ở Xuân Lộc tháo chạy. Cũng ngày này Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố từ chức Tổng thống.
17 giờ ngày 26/4 quân ta được lệnh nổ súng mở đầu chiến dịch. Tất cả 5 cánh quân từ các hướng vượt qua tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch tiến vào Sài Gòn.
Đêm 28 rạng sáng 29/4 tất cả các cánh quân của ta được lệnh đồng loạt tổng công kích vào trung tâm thành phố, đánh chiếm tất cả các cơ quan đầu não của địch.
9 giờ 30 phút ngày 30/4 Dương Văn Minh vừa lên làm Tổng thống đã kêu gọi “ngừng bắn để điều đình giao chính quyền” nhằm cứu quân ngụy khỏi sụp đổ.
10giờ 45 phút ngày 30/4 xe tăng của ta tiến thẳng vào dinh Tổng thống ngụy (dinh Độc Lập), bắt sống toàn bộ ngụy quyền Trung ương. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện. 11 giờ 30 phút cùng ngày, lá cờ cách mạng tung bay trên nóc phủ tổng thống ngụy, báo hiệu sự toàn thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Miền Nam được giải phóng, đất nước hoàn toàn độc lập, non sông thu về một mối.
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG 1/5
Ngày Quốc tế lao động, ngày hội của những người lao động toàn thế giới, được tổ chức vào ngày 1- 5 hàng năm.
Trong cuộc đấu tranh giữa tư bản và lao động, vấn đề thời gian lao động có ý nghĩa quan trọng. Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội I Quốc tế I họp tại Giơ-ne-vơ tháng 9-1866 vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ trước mắt. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh - nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Phong trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827 đi đôi với sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Tháng 4 - 1884 tại thành phố công nghiệp lớn Si-ca-gô, Đại hội Liên đoàn lao động Mỹ thông qua Nghị quyết nêu rõ: từ ngày 1 - 5 - 1886 ngày lao động của tất cả công nhân sẽ là 8 giờ.
Ngày 1 - 5 - 1886, công nhân toàn thành phố Si-ca-gô tiến hành bãi công, 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mittinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ học tập”, cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cùng ngày đó, các Trung tâm công nghiệp ở nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở một số nơi như Niu-Oóc, Pi-Xbớc, Ban-ti-mo, Oa-sinh-tơn… có khoảng 12 vạn rưỡi công nhân giành được quyền làm việc 8 giờ một ngày, khẩu hiệu “Ngày làm việc 8 giờ” trở thành tiếng nói chung của toàn thể giai cấp công nhân. Ở nhiều nơi cảnh sát đã đàn áp các cuộc biểu tình, đặc biệt ở thành phố Si-ca-gô cảnh sát đã tàn sát đẫm máu cuộc đấu tranh, làm hơn một trăm người chết, nhiều thủ lĩnh Công đoàn bị bắt và bị kết án tử hình.
Mặc dù cuộc bãi công ở Si-ca-gô bị trấn áp, nhưng khí phách anh hùng của công nhân và yêu cầu thiết thực của cuộc đấu tranh đã gây chấn động lớn trong giai cấp công nhân thế giới; công nhân nhiều nước đã đồng tình và hưởng ứng yêu sách của công nhân Si-ca-gô. Vì thế tại Đại hội thành lập Quốc tế II do Ph.Ăng-ghen lãnh đạo họp ngày 14 - 7 - 1889, Đại biểu của giai cấp công nhân thông qua Nghị quyết lấy ngày 01 - 5 hàng năm làm ngày đoàn kết đấu tranh của giai cấp vô sản toàn thế giới.
Thực hiện Nghị quyết trên, năm 1890 lần đầu tiên ngày Quốc tế lao động 1 - 5 được tổ chức trên quy mô thế giới.
Ngày 1 - 5 ở các nước xã hội chủ nghĩa, đã coi là ngày mừng thắng lợi đã đạt được, nêu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ mới và biểu lộ tình đoàn kết với những người lao động các nước khác. Ở các nước thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, ngày 1 - 5 là ngày biểu dương cho lực lượng lao động, đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội.
Ở Việt Nam, sau khi Đảng cộng sản Đông Dương ra đời (1930), giai cấp công nhân Việt Nam cũng lấy ngày 1 - 5 là ngày đoàn kết đấu tranh của mình. Cuộc đấu tranh ngày 1 - 5 - 1930 là một bước ngoặt của cao trào cách mạng 1930 - 1931, từ thành thị đến nông thôn, từ Bắc đến Nam nhiều nơi treo cờ Đảng, tổ chức mittinh, tuần hành thị uy, lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn vận động của Công hội, công nhân ta biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 - 5 đấu tranh đòi quyền lợi, tỏ tình đoàn kết với công nhân lao động thế giới.
Trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám việc kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1 - 5 phần nhiều phải tổ chức bí mật bằng hình thức treo cờ, rải truyền đơn. Năm 1936, do thắng lợi của Mặt trận bình dân Pháp và Mặt trận dân chủ Đông Dương, ngày Quốc tế lao động lần đầu tiên được tổ chức công khai tại Hà Nội, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Ngày nay, ngày Quốc tế lao động là ngày hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
Trong tài liệu sinh hoạt chi Đoàn số tháng 4 năm 2019, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên một số nội dung sau:
1. Thái độ và tác phong của người cán bộ Đoàn
Mỗi người cán bộ Đoàn có thái độ và phong cách riêng, có thể mang lại sự hứng thú, ngưỡng mộ của đoàn viên, thanh niên nhưng đôi khi cũng có thể mang lại sự buồn chán và không tôn trọng v.v...
Bên cạnh thái độ, tác phong riêng có, người cán bộ Đoàn cần biết tự rèn luyện thêm thái độ, tác phong thích hợp với vị trí, nhiệm vụ của mình, nhất là tác phong sư phạm. Đương nhiên, sự rèn luyện này cũng sẽ mang lại sự hữu ích cho tương lai, nghề nghiệp của người cán bộ Đoàn sau này. Một số thái độ và tác phong cần được chú ý gồm có:
1.1. Vận động - thuyết phục
Cán bộ Đoàn chính là người làm công tác thanh vận (vận động thanh niên). Vì vậy, phương pháp chủ yếu mà người cán bộ Đoàn cần áp dụng trong thực hiện nhiệm vụ là vận động, thuyết phục thông qua các hoạt động tuyên truyền, thảo luận dân chủ hay qua kết quả công việc thực tế. Sự vận động, thuyết phục nhằm đạt tới sự thống nhất trong nhận thức và hành động của từng cá nhân, tập thể đối với những công việc nên làm, phải làm,…
1.2. Biết lắng nghe mọi người
Việc lắng nghe ý kiến người khác là một yêu cầu quan trọng. Qua lắng nghe, người cán bộ Đoàn có thể hiểu tâm tư, nguyện vọng của thanh niên; để biết những yêu cầu mà mình đưa ra có được các thành viên tiếp nhận một cách tự giác hay không. Tuy nhiên, sự lắng nghe không có nghĩa là thụ động mà phải biết giải thích, đối đáp, hướng dẫn, hiểu được những băn khoăn lo lắng của thanh niên để tháo gỡ, giải quyết.
1.3. Làm gương
Lời nói bao giờ cũng phải đi đôi với việc làm. Trong công việc, nhất là việc khó, người cán bộ Đoàn phải biết cùng làm và cùng làm tốt. Đặc biệt, trong việc học tập, người cán bộ Đoàn cần phải đạt kết quả tốt.
Việc tu dưỡng, rèn luyện của người cán bộ Đoàn phải thực sự là tấm gương để đoàn viên, thanh niên noi theo, tự giác chấp hành tốt các qui định chung.
1.4. Nhạy bén, làm việc khoa học