Tin văn hóa - chính trị
Về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ giai đoạn mới
27/11/2018
TCCS - Nghị quyết số 26-NQ/TW “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” tiếp tục thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng đối với công tác cán bộ - công việc gốc của Đảng, khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Nghị quyết xác định kiểm soát chặt chẽ quyền lực là một nội dung trọng tâm, khâu đột phá trong công tác cán bộ.
Trong những năm qua vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ được Đảng ta đưa ra, bàn bạc, ra quyết sách khá nhiều (điển hình như trong Văn kiện Đại hội XII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII,...). Kế thừa, phát huy các kết quả đạt được, tại Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ đã được trình bày kỹ lưỡng, được thể hiện xuyên suốt, đầy đủ và toàn diện ở tất cả các nội dung của Nghị quyết; được xác định là một trong hai trọng tâm, một trong năm đột phá và là một nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của công tác cán bộ.
Trong những năm qua vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ được Đảng ta đưa ra, bàn bạc, ra quyết sách khá nhiều (điển hình như trong Văn kiện Đại hội XII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII,...). Kế thừa, phát huy các kết quả đạt được, tại Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ đã được trình bày kỹ lưỡng, được thể hiện xuyên suốt, đầy đủ và toàn diện ở tất cả các nội dung của Nghị quyết; được xác định là một trong hai trọng tâm, một trong năm đột phá và là một nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của công tác cán bộ.
Việc Đảng ta dành sự quan tâm sâu sắc đến nội dung kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ giai đoạn hiện nay là tất yếu, với đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn, với những vấn đề “gốc rễ” của nó. Xuất phát điểm cơ bản và chủ yếu nhất của vấn đề chính là vì tác hại, sự nguy hiểm khôn lường của việc “thả nổi quyền lực”, không kiểm soát được quyền lực và sự “tha hóa quyền lực” trong công tác cán bộ. Khi quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ thì nó là tác nhân chính làm tha hóa cán bộ, tha hóa những con người được trao quyền lực, từ đó làm tha hóa, thoái hóa, biến chất cả bộ máy. Đó cũng chính là nguyên nhân lớn nhất khiến đạo đức xã hội xuống cấp, văn hóa suy đồi, dân tộc mất dần sức mạnh nội sinh, xã hội trì trệ, quốc gia không thể hưng thịnh và không có đủ sức mạnh để tự vệ(1).
Khi quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ. Điều này rất dễ xảy ra ở người chủ trì, người đứng đầu tập thể lãnh đạo. Với tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược cùng với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Hồ Chí Minh đã tiên lượng, cảnh báo nguy cơ những người cán bộ chủ trì dễ mắc phải “căn bệnh” lạm quyền, lộng quyền, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực, lại phải thường xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất,... Người chỉ rõ: “Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”(2). Những cán bộ như vậy thường biến chất một cách nhanh chóng từ “người cán bộ cách mạng” thành “các ông quan cách mạng”, thành những “cường hào mới” trong những lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương mà họ nắm quyền lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực trong công tác cán bộ là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, làm tha hóa Đảng, “rất tai hại cho Đảng”(3) và trở thành một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Trên cơ sở nhận thức rõ tư tưởng Hồ Chí Minh và thấu triệt vị trí, ý nghĩa quan trọng của vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, thời gian qua Đảng ta đã chú trọng đến việc hoàn thiện các quy định, quy trình, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong công tác cán bộ. Tuy vậy, trên thực tế việc lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ vẫn chưa được khắc phục và đẩy lùi một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy, “trong lĩnh vực công tác cán bộ rất dễ lạm dụng quyền lực để trục lợi, như: nhiều trường hợp thực hiện công tác cán bộ không đúng quy định, không công khai, minh bạch, công tâm, khách quan; một số nơi, một số trường hợp thi, tuyển dụng công chức, viên chức chỉ mang tính hình thức; quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đi học, đi đào tạo không theo tiêu chuẩn... Trong công tác cán bộ, tình trạng “tiền tệ”, “hậu duệ”, “quan hệ”, “môn đệ”... hoặc bao che, phe nhóm, trù dập, định kiến,... vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi”(4).
Điều đáng lo ngại hơn là ở chỗ, các dạng lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ lại đang bị “biến tướng” một cách tinh vi, phức tạp và khó nhận biết hơn trước. Nghị quyết số 26-NQ/TW chỉ ra khá đầy đủ, rõ ràng thực trạng này: “Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực”(5).
Để xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ do nhiều nguyên nhân, mà một trong số đó là do còn những thiếu sót, hạn chế đối với việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; do chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hữu hiệu. Đảng ta thẳng thắn thừa nhận: “Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm”(6).
Mặt khác, sự lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ thường đi liền với tham nhũng. Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV, khi thảo luận về công tác phòng, chống tham nhũng, nhiều đại biểu đã chỉ rõ: Phòng, chống tham nhũng trong tuyển dụng công chức, bổ nhiệm cán bộ rất khó, nhưng đây lại là “nguyên nhân mấu chốt” và tham nhũng cũng từ đây mà ra. Nhiều đại biểu còn nhấn mạnh, thực chất những việc, như lạm dụng quyền lực để đưa người nhà, thân tín vào trong bộ máy lãnh đạo để tạo thành mối quan hệ gia đình, phe cánh đan xen vào mối quan hệ công việc là biến tướng của tham nhũng. Đặc biệt, tham nhũng trong công tác cán bộ hiện đang là dạng tham nhũng phổ biến nhất và cũng khó chống nhất. Dạng tham nhũng này lại cực kỳ nguy hiểm, vì nó phá hoại chủ trương, đường lối, chiến lược công tác cán bộ, làm hư hỏng đội ngũ cán bộ. Nếu không có biện pháp phòng, chống hữu hiệu thì hệ quả để lại rất nghiêm trọng, sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức yếu kém, thậm chí sẽ làm cho hệ thống chính trị bị mục ruỗng và khó tránh khỏi khủng hoảng chính trị, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Trong bối cảnh hiện nay, trong khi những thói hư, tật xấu, tàn dư xã hội cũ trong mỗi cán bộ, đảng viên chưa được đào thải triệt để; những hiện tượng lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ chưa được khắc phục kịp thời, thì “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp hơn,... Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ”(7).
Rõ ràng, việc kiểm soát quyền lực đã, đang trở thành vấn đề cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác cán bộ nói riêng. Điều này cũng đặt ra yêu cầu phải có những phương hướng, giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ, cụ thể, thiết thực và khả thi. Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định một trong tám nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là “Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ”.
Theo đó, trước hết cần “xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm”(8).
Đây là nội dung, biện pháp có ý nghĩa trực tiếp, quyết định nhất. Nội dung, biện pháp này thống nhất với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và đúng với tinh thần mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu, nhấn mạnh: phải kiểm soát quyền lực, “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” quy chế, thể chế. Theo đó, phải có cơ chế kiểm soát quyền lực theo hướng đa chiều, đa diện với nhiều kênh khác nhau, như kiểm soát bằng thể chế kết hợp với kiểm soát bằng đạo đức, trách nhiệm; kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới và ngược lại; kiểm soát chéo giữa các cơ quan, tổ chức; kiểm soát trong Đảng thống nhất, đồng bộ với kiểm soát của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị; kiểm soát của cơ quan chuyên trách với cơ quan không chuyên trách; kiểm soát của cơ quan quyền lực kết hợp với kiểm soát của báo chí và dư luận xã hội,... Kiểm soát của báo chí, của công luận phải khách quan, công tâm, trong sáng; không để lợi dụng để làm phức tạp hóa tình hình, đánh lạc hướng dư luận và xuyên tạc tinh thần công khai, dân chủ, nghiêm minh của Đảng.
Theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với những cán bộ có chức, có quyền phải được thực hiện với sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội của các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân. Cần kết hợp được giữa tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, sức mạnh của dư luận xã hội và sự thức tỉnh lương tâm của người đứng đầu tập thể, của những người có chức, có quyền thông qua tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thực chất. Nghị quyết yêu cầu: “mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ”(9).
Nghị quyết cũng yêu cầu phải quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ; xác định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong công tác cán bộ theo hướng bảo đảm phải rõ quyền, đủ quyền, đúng quyền và thực quyền. Về nguyên tắc, công tác cán bộ là của tập thể lãnh đạo; bất kỳ cá nhân nào, kể cả người đứng đầu cấp ủy đảng, người chủ trì cao nhất cũng không có quyền quyết định, nhưng sự lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực trong công tác cán bộ vẫn có thể xảy ra. Vì vậy, “thể chế kiểm soát quyền lực” được đặt ra là cần nghiên cứu, xây dựng các luật, văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu trong tất cả các khâu, các bước của công tác cán bộ, nhất là quyền giới thiệu, tiến cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; đồng thời, phải quy rõ trách nhiệm liên đới nếu có cán bộ dưới quyền, thuộc quyền phạm sai lầm, khuyết điểm.
Tuy nhiên, cần có cách nhìn biện chứng, sự xem xét toàn diện để thấy rằng, việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực của người đứng đầu tập thể lãnh đạo, hay của những người có chức, có quyền trong công tác cán bộ không có nghĩa là hạn chế, kìm hãm quyền của họ. Ngược lại, cơ chế kiểm soát đầy đủ, chặt chẽ chính là phương cách để phát huy hết khả năng, sự sáng tạo của các chủ thể này vào thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Qua kiểm soát quyền lực của những người đứng đầu, người có chức, có quyền để kịp thời ngăn ngừa những biểu hiện lệch lạc và hướng hành động, việc làm của họ theo đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đảng. Trình độ kiểm soát quyền lực của người chủ trì thể hiện năng lực làm chủ những xu hướng, những nguy cơ và không để bị sa ngã vào sự lạm quyền, tham nhũng, tha hóa quyền lực. Và hơn hết, người đứng đầu tập thể, người chủ trì các cấp phải thường xuyên, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành những người thật sự có “tâm”, có “tầm”. Để kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ vấn đề cơ bản, đầu tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát của mỗi cá nhân những người có chức, có quyền, nhất là cán bộ chủ trì các cấp.
Quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực, do đó cần thiết lập cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm soát quyền lực có “quyền lực thực sự”, có tính độc lập và đủ thẩm quyền để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Nhưng trên hết và trước hết cũng phải đề cao trách nhiệm của chính các cơ quan kiểm tra, thanh tra, giám sát quyền lực. Nếu các cơ quan này thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, thanh tra, giám sát, để “lọt” các trường hợp vi phạm thì phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước pháp luật và nhân dân. Tính nghiêm minh, công khai, công bằng, dân chủ, đúng nguyên tắc trong thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát, kỷ luật đảng sẽ tạo sức mạnh đoàn kết toàn dân, quy tụ sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, qua đó góp phần quan trọng kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ.
Hai là, “thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự”(10) trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Đây là biện pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong cuộc tiếp xúc, lắng nghe ý kiến cử tri Thủ đô ngay sau Hội nghị Trung ương 7 khóa XII: Công khai là thanh bảo kiếm chữa lành các vết thương. Còn che giấu, bưng bít đi thì mới mất uy tín và càng làm cán bộ hư hỏng. Do đó, cần tránh quan niệm coi việc bổ nhiệm, đề bạt, sử dụng cán bộ là công việc bí mật và chỉ lấy ý kiến của một vài người để thay cho quyết định của tập thể. Cần phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tất cả các khâu, các bước của công tác cán bộ.
Đồng thời, cần tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Cần quy định rõ tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý các cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tính định lượng cụ thể nhằm tạo ra sự rõ ràng, khách quan, qua đó có cơ sở giám sát, kiểm tra đầy đủ, chính xác. Thực hiện rộng rãi, chặt chẽ, nghiêm túc việc thi tuyển các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý với mục tiêu lựa chọn được những người xứng đáng, đủ đức, đủ tài để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Thực tế cho thấy, công khai thi tuyển đã tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh được tình trạng khép kín, cục bộ trong công tác tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, cũng như khắc phục được tình trạng thao túng, lạm quyền, lợi ích nhóm và tham nhũng trong công tác này. Tuy nhiên, sau thi tuyển cũng cần có cơ chế kiểm soát, giám sát quá trình làm việc của những người được bổ nhiệm thông qua thi tuyển.
Ba là, “xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ”(11). Để thực hiện tốt nội dung này, Nghị quyết đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đồng bộ hóa các quy định của Đảng, Nhà nước về kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm. Trong đó, “đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm”(12). Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương; trong xử lý sai phạm phải kịp thời, nghiêm minh, không có “vùng cấm”, không loại trừ bất cứ đối tượng nào, ở bất kỳ cấp nào, giữ bất kỳ cương vị nào. Nếu lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong công tác cán bộ đều phải được kiểm tra, thanh tra, điều tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu. Tiến hành hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng, không phù hợp về công tác cán bộ và xử lý nghiêm minh những tập thể, cá nhân có khuyết điểm, sai phạm, thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy, né tránh, trù dập.
Nghị quyết số 26-NQ/TW đã khẳng định một cách rõ ràng, nhất quán vai trò đặc biệt quan trọng của việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ đối với công tác xây dựng Đảng và sự phát triển của đất nước; chỉ ra những mục tiêu, phương hướng, yêu cầu và cả cách thức cơ bản để thực hiện có chất lượng và hiệu quả công tác này. Điều này vừa minh chứng cho bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về công tác cán bộ, vừa thể hiện ý chí, quyết tâm chính trị rất cao, cùng với hành động cụ thể, quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, qua đó trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới./.
Khi quyền lực không được kiểm soát chặt chẽ tất yếu sẽ dẫn đến sự lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ. Điều này rất dễ xảy ra ở người chủ trì, người đứng đầu tập thể lãnh đạo. Với tư duy khoa học và tầm nhìn chiến lược cùng với sự mẫn cảm chính trị sâu sắc, Hồ Chí Minh đã tiên lượng, cảnh báo nguy cơ những người cán bộ chủ trì dễ mắc phải “căn bệnh” lạm quyền, lộng quyền, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bởi họ nắm trong tay “chìa khóa” của quyền lực, lại phải thường xuyên đối mặt với cạm bẫy và cám dỗ về lợi ích vật chất,... Người chỉ rõ: “Những người mắc phải bệnh này thì đặt lợi ích của mình lên trên lợi ích của Đảng, của dân tộc, do đó mà chỉ “tự tư tự lợi”. Dùng của công làm việc tư. Dựa vào thế lực của Đảng để theo đuổi mục đích riêng của mình”(2). Những cán bộ như vậy thường biến chất một cách nhanh chóng từ “người cán bộ cách mạng” thành “các ông quan cách mạng”, thành những “cường hào mới” trong những lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương mà họ nắm quyền lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực trong công tác cán bộ là nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, làm tha hóa Đảng, “rất tai hại cho Đảng”(3) và trở thành một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Trên cơ sở nhận thức rõ tư tưởng Hồ Chí Minh và thấu triệt vị trí, ý nghĩa quan trọng của vấn đề kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, thời gian qua Đảng ta đã chú trọng đến việc hoàn thiện các quy định, quy trình, thủ tục, thẩm quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong công tác cán bộ. Tuy vậy, trên thực tế việc lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ vẫn chưa được khắc phục và đẩy lùi một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy, “trong lĩnh vực công tác cán bộ rất dễ lạm dụng quyền lực để trục lợi, như: nhiều trường hợp thực hiện công tác cán bộ không đúng quy định, không công khai, minh bạch, công tâm, khách quan; một số nơi, một số trường hợp thi, tuyển dụng công chức, viên chức chỉ mang tính hình thức; quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, đi học, đi đào tạo không theo tiêu chuẩn... Trong công tác cán bộ, tình trạng “tiền tệ”, “hậu duệ”, “quan hệ”, “môn đệ”... hoặc bao che, phe nhóm, trù dập, định kiến,... vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi”(4).
Điều đáng lo ngại hơn là ở chỗ, các dạng lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ lại đang bị “biến tướng” một cách tinh vi, phức tạp và khó nhận biết hơn trước. Nghị quyết số 26-NQ/TW chỉ ra khá đầy đủ, rõ ràng thực trạng này: “Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận. Công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu cực”(5).
Để xảy ra tình trạng lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ do nhiều nguyên nhân, mà một trong số đó là do còn những thiếu sót, hạn chế đối với việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ; do chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực một cách hữu hiệu. Đảng ta thẳng thắn thừa nhận: “Phân công, phân cấp, phân quyền chưa gắn với ràng buộc trách nhiệm, với tăng cường kiểm tra, giám sát và chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chưa có biện pháp hữu hiệu để kịp thời ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền và những tiêu cực trong công tác cán bộ. Thiếu chặt chẽ, hiệu quả trong phối hợp kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm”(6).
Mặt khác, sự lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ thường đi liền với tham nhũng. Tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV, khi thảo luận về công tác phòng, chống tham nhũng, nhiều đại biểu đã chỉ rõ: Phòng, chống tham nhũng trong tuyển dụng công chức, bổ nhiệm cán bộ rất khó, nhưng đây lại là “nguyên nhân mấu chốt” và tham nhũng cũng từ đây mà ra. Nhiều đại biểu còn nhấn mạnh, thực chất những việc, như lạm dụng quyền lực để đưa người nhà, thân tín vào trong bộ máy lãnh đạo để tạo thành mối quan hệ gia đình, phe cánh đan xen vào mối quan hệ công việc là biến tướng của tham nhũng. Đặc biệt, tham nhũng trong công tác cán bộ hiện đang là dạng tham nhũng phổ biến nhất và cũng khó chống nhất. Dạng tham nhũng này lại cực kỳ nguy hiểm, vì nó phá hoại chủ trương, đường lối, chiến lược công tác cán bộ, làm hư hỏng đội ngũ cán bộ. Nếu không có biện pháp phòng, chống hữu hiệu thì hệ quả để lại rất nghiêm trọng, sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ, công chức yếu kém, thậm chí sẽ làm cho hệ thống chính trị bị mục ruỗng và khó tránh khỏi khủng hoảng chính trị, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Trong bối cảnh hiện nay, trong khi những thói hư, tật xấu, tàn dư xã hội cũ trong mỗi cán bộ, đảng viên chưa được đào thải triệt để; những hiện tượng lạm dụng quyền lực trong công tác cán bộ chưa được khắc phục kịp thời, thì “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt gay gắt hơn; tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp hơn,... Tình hình đó tác động mạnh mẽ, toàn diện, sâu sắc đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ”(7).
Rõ ràng, việc kiểm soát quyền lực đã, đang trở thành vấn đề cấp thiết trong công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác cán bộ nói riêng. Điều này cũng đặt ra yêu cầu phải có những phương hướng, giải pháp mang tính toàn diện, đồng bộ, cụ thể, thiết thực và khả thi. Nghị quyết số 26-NQ/TW xác định một trong tám nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là “Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ”.
Theo đó, trước hết cần “xây dựng, hoàn thiện thể chế để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ theo nguyên tắc mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc bằng trách nhiệm”(8).
Đây là nội dung, biện pháp có ý nghĩa trực tiếp, quyết định nhất. Nội dung, biện pháp này thống nhất với Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và đúng với tinh thần mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu, nhấn mạnh: phải kiểm soát quyền lực, “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” quy chế, thể chế. Theo đó, phải có cơ chế kiểm soát quyền lực theo hướng đa chiều, đa diện với nhiều kênh khác nhau, như kiểm soát bằng thể chế kết hợp với kiểm soát bằng đạo đức, trách nhiệm; kiểm soát của cấp trên đối với cấp dưới và ngược lại; kiểm soát chéo giữa các cơ quan, tổ chức; kiểm soát trong Đảng thống nhất, đồng bộ với kiểm soát của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị; kiểm soát của cơ quan chuyên trách với cơ quan không chuyên trách; kiểm soát của cơ quan quyền lực kết hợp với kiểm soát của báo chí và dư luận xã hội,... Kiểm soát của báo chí, của công luận phải khách quan, công tâm, trong sáng; không để lợi dụng để làm phức tạp hóa tình hình, đánh lạc hướng dư luận và xuyên tạc tinh thần công khai, dân chủ, nghiêm minh của Đảng.
Theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với những cán bộ có chức, có quyền phải được thực hiện với sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, vai trò tổ chức, quản lý của Nhà nước, giám sát và phản biện xã hội của các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và nhân dân. Cần kết hợp được giữa tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, sức mạnh của dư luận xã hội và sự thức tỉnh lương tâm của người đứng đầu tập thể, của những người có chức, có quyền thông qua tự phê bình và phê bình nghiêm túc, thực chất. Nghị quyết yêu cầu: “mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân; vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải trình trong công tác cán bộ”(9).
Nghị quyết cũng yêu cầu phải quy định chặt chẽ và thực hiện nghiêm quy trình công tác cán bộ; xác định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm của tập thể, cá nhân trong công tác cán bộ theo hướng bảo đảm phải rõ quyền, đủ quyền, đúng quyền và thực quyền. Về nguyên tắc, công tác cán bộ là của tập thể lãnh đạo; bất kỳ cá nhân nào, kể cả người đứng đầu cấp ủy đảng, người chủ trì cao nhất cũng không có quyền quyết định, nhưng sự lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực trong công tác cán bộ vẫn có thể xảy ra. Vì vậy, “thể chế kiểm soát quyền lực” được đặt ra là cần nghiên cứu, xây dựng các luật, văn bản quy phạm pháp luật quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm người đứng đầu trong tất cả các khâu, các bước của công tác cán bộ, nhất là quyền giới thiệu, tiến cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ; đồng thời, phải quy rõ trách nhiệm liên đới nếu có cán bộ dưới quyền, thuộc quyền phạm sai lầm, khuyết điểm.
Tuy nhiên, cần có cách nhìn biện chứng, sự xem xét toàn diện để thấy rằng, việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực của người đứng đầu tập thể lãnh đạo, hay của những người có chức, có quyền trong công tác cán bộ không có nghĩa là hạn chế, kìm hãm quyền của họ. Ngược lại, cơ chế kiểm soát đầy đủ, chặt chẽ chính là phương cách để phát huy hết khả năng, sự sáng tạo của các chủ thể này vào thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ của mình. Qua kiểm soát quyền lực của những người đứng đầu, người có chức, có quyền để kịp thời ngăn ngừa những biểu hiện lệch lạc và hướng hành động, việc làm của họ theo đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đảng. Trình độ kiểm soát quyền lực của người chủ trì thể hiện năng lực làm chủ những xu hướng, những nguy cơ và không để bị sa ngã vào sự lạm quyền, tham nhũng, tha hóa quyền lực. Và hơn hết, người đứng đầu tập thể, người chủ trì các cấp phải thường xuyên, tích cực tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành những người thật sự có “tâm”, có “tầm”. Để kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ vấn đề cơ bản, đầu tiên thuộc về cơ chế tự kiểm soát của mỗi cá nhân những người có chức, có quyền, nhất là cán bộ chủ trì các cấp.
Quyền lực phải được kiểm soát bằng chính quyền lực, do đó cần thiết lập cơ quan kiểm tra, thanh tra, kiểm soát quyền lực có “quyền lực thực sự”, có tính độc lập và đủ thẩm quyền để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Nhưng trên hết và trước hết cũng phải đề cao trách nhiệm của chính các cơ quan kiểm tra, thanh tra, giám sát quyền lực. Nếu các cơ quan này thiếu trách nhiệm trong kiểm tra, thanh tra, giám sát, để “lọt” các trường hợp vi phạm thì phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước pháp luật và nhân dân. Tính nghiêm minh, công khai, công bằng, dân chủ, đúng nguyên tắc trong thực hiện kiểm tra, thanh tra, giám sát, kỷ luật đảng sẽ tạo sức mạnh đoàn kết toàn dân, quy tụ sự đồng thuận của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, qua đó góp phần quan trọng kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ.
Hai là, “thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự”(10) trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Đây là biện pháp có ý nghĩa hết sức quan trọng để kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh trong cuộc tiếp xúc, lắng nghe ý kiến cử tri Thủ đô ngay sau Hội nghị Trung ương 7 khóa XII: Công khai là thanh bảo kiếm chữa lành các vết thương. Còn che giấu, bưng bít đi thì mới mất uy tín và càng làm cán bộ hư hỏng. Do đó, cần tránh quan niệm coi việc bổ nhiệm, đề bạt, sử dụng cán bộ là công việc bí mật và chỉ lấy ý kiến của một vài người để thay cho quyết định của tập thể. Cần phải thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ trong tất cả các khâu, các bước của công tác cán bộ.
Đồng thời, cần tạo cơ chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, điều động, bổ nhiệm, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật cán bộ. Cần quy định rõ tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý các cơ quan trong hệ thống chính trị bảo đảm tính định lượng cụ thể nhằm tạo ra sự rõ ràng, khách quan, qua đó có cơ sở giám sát, kiểm tra đầy đủ, chính xác. Thực hiện rộng rãi, chặt chẽ, nghiêm túc việc thi tuyển các chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý với mục tiêu lựa chọn được những người xứng đáng, đủ đức, đủ tài để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Thực tế cho thấy, công khai thi tuyển đã tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, tránh được tình trạng khép kín, cục bộ trong công tác tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, cũng như khắc phục được tình trạng thao túng, lạm quyền, lợi ích nhóm và tham nhũng trong công tác này. Tuy nhiên, sau thi tuyển cũng cần có cơ chế kiểm soát, giám sát quá trình làm việc của những người được bổ nhiệm thông qua thi tuyển.
Ba là, “xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng quyền lực để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ”(11). Để thực hiện tốt nội dung này, Nghị quyết đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đồng bộ hóa các quy định của Đảng, Nhà nước về kiểm tra, giám sát, thanh tra, xử lý vi phạm. Trong đó, “đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra định kỳ, đột xuất; theo chuyên đề, chuyên ngành; của cấp trên đối với cấp dưới; cấp dưới giám sát cấp trên. Coi trọng cả cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm”(12). Phải siết chặt kỷ luật, kỷ cương; trong xử lý sai phạm phải kịp thời, nghiêm minh, không có “vùng cấm”, không loại trừ bất cứ đối tượng nào, ở bất kỳ cấp nào, giữ bất kỳ cương vị nào. Nếu lạm quyền, lộng quyền, lợi dụng quyền lực vì lợi ích cá nhân, tham nhũng, “lợi ích nhóm” trong công tác cán bộ đều phải được kiểm tra, thanh tra, điều tra, xem xét, kết luận và xử lý nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu. Tiến hành hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng, không phù hợp về công tác cán bộ và xử lý nghiêm minh những tập thể, cá nhân có khuyết điểm, sai phạm, thiếu trách nhiệm hoặc đùn đẩy, né tránh, trù dập.
Nghị quyết số 26-NQ/TW đã khẳng định một cách rõ ràng, nhất quán vai trò đặc biệt quan trọng của việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ đối với công tác xây dựng Đảng và sự phát triển của đất nước; chỉ ra những mục tiêu, phương hướng, yêu cầu và cả cách thức cơ bản để thực hiện có chất lượng và hiệu quả công tác này. Điều này vừa minh chứng cho bước tiến quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng về công tác cán bộ, vừa thể hiện ý chí, quyết tâm chính trị rất cao, cùng với hành động cụ thể, quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với việc kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong công tác cán bộ, qua đó trực tiếp góp phần nâng cao chất lượng công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới./.
Bài viết cùng danh mục
25/03/2019
Đó là mong muốn của anh Bùi Quang Huy, Bí thư Trung ương Đoàn, Chủ tịch T.Ư Hội Sinh viên Việt Nam tại buổi tọa đàm “Cán bộ Đoàn nhớ lời Di chúc theo chân Bác” được tổ chức tại Hà Tĩnh.
26/02/2019
Truyền thông Triều Tiên tiếp tục đưa tin đậm nét về chuyến đi tới Việt Nam của Chủ tịch Kim Jong-un trước thềm hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều.
Nhạc thanh niên
Thư viện hình ảnh
Nghề nghiệp - việc làm